Đột biến Gen EGFR hay còn gọi là Epidermal Growth Factor Receptor, được xem như thụ thể có yếu tố tăng trưởng biểu bì, đây là dạng đột biến rất thường gặp ở những người mắc bệnh ung thư phổi (gần 20%). Thống kê gần đây cho biết, có đến 50% người Châu Á mắc bệnh ung thư phổi xuất hiện đột biến gen EGFR. Bên cạnh yếu tố chủng tộc; đột biến gen EGFR còn xuất hiện với tỉ lệ cao người bệnh ung thư phổi là nữ, những người không hút thuốc lá và có mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến.
Những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến xa có đột biến gen EGFR được điều trị bằng các thuốc ức chế tyrosin kinase (thế hệ 1: erlotinib hoặc gefitinib; thế hệ 2: afatinib hoặc thuốc thế hệ 3 là osimertinib) để trì hoãn sự phát triển của bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Chỉ định thực hiện xét nghiệm đột biến Gen EGFR khi:
Quy trình thực hiện xét nghiệm đột biến gen EGFR như sau:
Hình ảnh hiển vi của ung thư phổi tế bào nhỏ phổi chỉ ra các tế bào ung thư kết thành nhân, lượng nhỏ tế bào chất và các đốm nhiễm sắc
Xét nghiệm đột biến gen EGFR được thực hiện để giúp kiểm tra và điều trị sớm nhất bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ, đây là một trong những giải pháp tối ưu để kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân mắc ung thư.
Xét nghiệm đột biến gen EGFR có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tình trạng đột biến gen của tế bào u ác tính và làm căn cứ cho việc lựa chọn phương pháp điều trị đích ở bệnh nhân ung thư phổi. Các trường hợp có khối u mang đột gen EGFR ở exon 18, 19 và 21 có chỉ định điều trị đích với thuốc TKI và ngược lại, các trường hợp không mang đột biến EGFR hiếm khi đáp ứng với thuốc TKI.
Đột biến thứ phát - Những thách thức mới
Bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn muộn mang đột biến gen EGFR nhạy thuốc có tỷ lệ đáp ứng với các thuốc ức chế tyrosine kinase (ví dụ gefitinib và erlotinib) rất cao, trên 60% trường hợp, và kéo dài được thời gian sống thêm không tiến triển trung bình trên 9 tháng. Các đáp ứng điều trị lúc mới đầu gây ấn tượng sâu sắc, nhưng sau khoảng 10-20 tháng điều trị thì bệnh tiến triển trở lại ở hầu hết các bệnh nhân, kể cả những bệnh nhân có đáp ứng tốt ban đầu. Y học đã ghi nhận một số cơ chế gây nên tình trạng đề kháng các thuốc ức chế tyrosine kinase, trong đó đột biến thứ phát T790M và sự khuếch đại của MET có thể là hai cơ chế đề kháng-mắc phải chính có liên quan. T790M là một đột biến thứ phát xảy ra trên exon 20 gen EGFR, chiếm khoảng 50% các trường hợp đề kháng thuốc ức chế tyrosine kinase-mắc phải.
Đột biến MET (Mesenchymal Epithelial Transition / Chuyển tiếp Trung mô-Biểu mô) là một thụ thể Tyrosine Kinase. Khuếch đại MET gặp ở khoảng 20% các bệnh nhân đề kháng thuốc ức chế Tyrosine Kinase mắc phải. Trường hợp các bệnh nhân được điều trị trúng đích xuất hiện tình trạng đề kháng với các thuốc ức chế tyrosine kinase, bác sĩ có thể cho làm các xét nghiệm khác để tìm ra các cơ chế mới dẫn đến đề kháng để đổi thuốc thích hợp.
Tại bệnh viện Đa khoa Phương Đông chúng tôi hiện nay đang triển khai các xét nghiệm đột biến EGFR bằng cả phương pháp Digital PCR và NGS cho kết quả xét nghiệm chính xác, tin cậy, đáp ứng được các yêu cầu của bệnh nhân và bác sĩ điều trị.
Khoa xét nghiệm - BSCKI. Nguyễn Thị Uyên