Tổng quan về bệnh
Dịch hạch là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây lan nhanh và tiến triển cấp tính với biểu hiện nhiễm khuẩn, nhiễm độc toàn thân. Bệnh có tỷ lệ tử vong cao và được xếp vào diện phải kiểm dịch, khai báo quốc tế.
Bệnh gây ra bởi trực khuẩn Yersinia Pestis, vi khuẩn này chết ở nhiệt độ 550C trong khoảng 30 phút, ở 1000C là 1 phút và bị tiêu diệt bởi thuốc sát khuẩn thường dùng.
Dịch hạch từng lưu hành và là nỗi ám ảnh của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Là nguyên nhân gây ra trận đại dịch khủng khiếp nhất vào thời Trung cổ tại châu Âu.
Dịch hạch biến chứng gây hoại tử đầu chi
Con người nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ các loài động vật gặm nhấm như thỏ, chuột… thông qua vật trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn. Dựa trên triệu chứng lâm sàng thì có nhiều thể của bệnh gồm: thể hạch, thể phổi, thể não, thể nhiễm khuẩn huyết. Thể hạch chiếm tỷ lệ đến 90%.
Theo thống kê, từ năm 1989 – 2003, tại 25 quốc gia trên thế giới, có hơn 38.000 trường hợp mắc bệnh dịch hạch, trong đó có hơn 2.800 ca tử vong. Còn tại Việt Nam vào giai đoạn 1960 – 1970, mỗi năm có khoảng 10.000 trường hợp mắc bệnh. Những năm sau đó, số ca nhiễm giảm xuống còn khoảng 140 ca mỗi năm. Trong những năm trở lại đây, hầu như không ghi nhận bất cứ trường hợp nào tại các cơ sở y tế.
Tuy thời gian dịch bùng phát mạnh nhất là lúc thời tiết hanh không nhưng cũng không loại bỏ việc vẫn ghi nhận dịch hạch trong các khoảng thời gian khác nhau trong năm.
Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, cả nam và nữ nhưng chủ yếu là ở người dưới 20 tuổi, xả ra ở nơi đông đúc, chật chội, điều kiện vệ sinh kém (điều kiện thuận lợi để chuột sinh sống và phát triển) hoặc vùng có nền đất cá (bọ chét sinh sống).
Sau khi khỏi bệnh dịch hạch, người bệnh vẫn có thể miễn dịch nhưng tình trạng này chỉ mang tính chất tương đối, nếu vi khuẩn tấn công với số lượng lớn thì miễn dịch này không thể bảo vệ được.
Nguyên nhân gây dịch hạch ở người
- Vi khuẩn gây bệnh Yersinia pestis được truyền sang người qua vết cắn của bọ chét. Mà những con bọ chét này từng sống trên các con vật bị nhiễm bệnh, thường là các loài gặm nhấm như chuột, sóc, thỏ, chồn,...
- Vi khuẩn cũng có thể xâm nhập vào cơ thể nếu vết thương hở trên da tiếp xúc với máu của động vật nhiễm bệnh. Chó mèo trong nhà có thể nhiễm bệnh từ từ bọ chét hoặc ăn các loài gặm nhấm nhiễm bệnh.
- Với bệnh dịch hạch viêm phổi, nó làm ảnh hưởng đến phổi rồi lây lan qua việc hít những giọt nước truyền nhiễm khi ho bởi con vật hoặc người bệnh.
Triệu chứng nhận biết dịch hạch
Theo từng thể lâm sàng mà dấu hiệu của bệnh cũng khác nhau, cụ thể như sau:
1. Thể hạch
Đây là thể bệnh phổ biến nhất, 2-5 ngày là khoảng thời gian trung bình của giai đoạn ủ bệnh, có thể kéo dài từ vài giờ đến 8-10 ngày và lúc này người bệnh chưa có dấu hiệu lâm sàng.
Khi sang giai đoạn khởi phát, người bệnh sẽ có những triệu chứng như: đang khỏe mạnh đột ngột thấy mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, sốt cao, rét run, đau nhức người, đặc biệt đau nhiều ở vị trí sắp sưng hạch.
Ở giai đoạn toàn phát, xuất hiện sau giai đoạn khởi phát khoảng vài giờ hoặc 1-2 ngày, triệu chứng đặc trưng là viêm hạch ở những vị trí liên quan đến khu vực bị bọ chét đốt và nhiễm trùng, nhiễm độc nặng nề.
Hạch viêm sẽ sưng to, có mủ, nếu không được điều trị sớm thì sẽ tự vỡ và chảy máu lẫn mủ. Vết thương này rất lâu lành và thường sẽ để lại sẹo co rúm, mất thẩm mỹ. Các vị trí thường gặp là vùng cổ, dưới hàm, nách, dọc cơ ức đòn chũm, bẹn.
Khi ở giai đoạn toàn phát, toàn thân người bệnh sẽ có biểu hiện nhiễm độc nhiễm trùng nặng:
- Sốt: sốt cao liên tục hoặc dao động, bệnh càng nặng thì sốt càng cao
- Nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi
- Li bì, hốt hoảng, có thể có cả mê sảng
- Da niêm mạc bị xung huyết
- Môi khô, lưỡi bẩn, trắng
- Tim đập nhanh, thở gấp
- Nước tiểu ít, màu đậm
- Tiêu chảy.
2. Thể nhiễm khuẩn huyết
Thể nhiễm khuẩn huyết khác với thể hạch, tình trạng này người bệnh nhiễm trùng nhiễm độc ngay cả khi hạch ngoại vi chưa viêm.
Triệu chứng lâm sàng gồm:
- Sốt cao, trên 40 độ C kèm theo rét run
- Trường hợp nặng hơn, người bệnh bị kích động, mê sảng hoặc li bì
- Rối loạn hô hấp, tim mạch
- Bụng chướng, tiêu chảy
- Xuất huyết vùng da, niêm mạc và các cơ quan.
Dịch hạch gây tỷ lệ tử vong cao, trong 1-2 ngày đầu có thể tử vong thì được gọi là "dịch hạch tối cấp". Thể nhiễm khuẩn huyết có thể tiên phát hoặc thứ phát sau thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị.
3. Thể phổi
Ở thể dịch này, thời gian ủ bệnh ngắn, khởi phát đột ngột, chỉ sau vài giờ, các triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc bắt đầu xuất hiện và dần nặng lên.
- Sốt cao, trên 40 độ C, rét run
- Mệt mỏi, đau nhức đầu
- Mạch nhanh, huyết áp giảm
- Khó thở, thở nhanh nông
- Ho nhiều, có đờm và máu kèm theo nhiều vi khuẩn.
Dịch hạch thể phổi thứ phát sau thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết thường gặp hơn thể phổi tiên phát, có tiên lượng nặng hơn với tỷ lệ tử vong cao trong vòng 1 đến 2 ngày đầu nhiễm bệnh.
4. Thể da
Biểu hiện của thể này chỉ lâm sàng tại chỗ đó là: vị trí vi khuẩn xâm nhập, các nốt dát xuất hiện, sau tiến triển thành mụn nước rồi mụn mủ có lẫn máu, khi chạm vào sẽ thấy rất đau. Vùng da xung quanh xung huyết, thâm nhiễm và có gờ cao.
Khi vỡ mụn mủ nó để lại vết loét với đáy thâm nhiễm vàng, phủ vảy đen. Các vết loét lâu lành và chậm liền sẹo.
Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh
Nguy cơ mắc bệnh dịch hạch sẽ tăng cao nếu có các yếu tố như:
- Môi trường sống ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh
- Số trong khu vực có bệnh dịch lưu hành
- Tiếp xúc thường xuyên với động vật gặm nhấm
- Sức đề kháng yếu.
Con đường lây lan bệnh dịch hạch
Bệnh dịch hạch có 2 con đường lây nhiễm là qua trung gian bọ chét và lan truyền trực tiếp
1. Qua trung gian bọ chét
Qua trung gian bọ chét là con đường lây nhiễm phổ biến nhất. Bọ chét hút máu vật chủ (chuột), vi khuẩn gây dịch hạch sẽ nhân lên lên trong tiền dạ dày của bọ chét làm tắc nghẽn đường tiêu hóa.
Khi bọ chét đốt người, vi khuẩn theo vết đốt vào cơ thể vật chủ mới (con người) và gây bệnh. Sự lan truyền bệnh sang người chủ yếu từ các loài động bệnh gặm nhấm như thỏ, chuột,... Ở Nam Phi, sự lây lan từ người sang người vẫn xảy ra thông qua bọ chét có tên Pulex irritans.
2. Lan truyền trực tiếp
Không cần sự có mặt của trung gian truyền bệnh như bọ chét thì bệnh vẫn có thể lây lan từ vận chủ bệnh sang vậy chủ lành được. Đường lan truyền bao gồm:
- Hô hấp: hít phải vi khuẩn dịch tồn tại trong không khí do tiếp xúc với dịch thể phổi hoặc vật chủ chết vì dịch.
- Tiêu hóa: đường lan truyền này ít gặp bởi vi khuẩn gây bệnh dễ bị tiêu diệt khi đun sôi, nấu chín.
- Da, niêm mạc: ngoài vết da bị thương vì vi khuẩn dịch hạch cũng có thể xâm nhập trực tiếp qua da lành.
Biến chứng của bệnh dịch hạch
Một số biến chứng của dịch hạch có thể gặp như:
- Hoại tử đầu chi: các cục máu đông trong mạch máu nhỏ của ngón tay, ngón chân có thể làm gián đoạn lưu lượng máu, khiến cho mô đó bị chết. Các phần ngón tay, ngón chân đã chết có thể cần lại bỏ bằng cách cắt cụt.
- Viêm màng não: biến chứng này hiếm khi xảy ra nhưng bệnh vẫn có khả năng gây viêm màng bao quanh não và tủy sống.
- Tử vong: hầu hết những người được điều trị bằng kháng sinh kịp thời có thể sống sót, còn những trường hợp không được điều trị thì có tỷ lệ tử vong cao.
Biện pháp chẩn đoán dịch hạch
Những triệu chứng lâm sàng kể trên sẽ góp phần vào việc chẩn đoán bệnh, tuy nhiên không thể chỉ dựa vào các triệu chứng đó mà cần phối hợp các xét nghiệm cận lâm sàng để xác định sự tồn tại của vi khuẩn gây bệnh.
Các bác sĩ sẽ tiến hành thu thập các bệnh phẩm gồm mủ từ hạch viêm, máu, đờm và chất tiết vùng họng, huyết thanh của chuột, bọ chét.
Các phương pháp xét nghiệm có thể được chỉ định như:
- Nhuộm soi vi khuẩn trực tiếp
- Cấy và phân lập vi khuẩn
- Phát hiện kháng nguyên F1 của vi khuẩn dịch hạch
- Miễn dịch huỳnh quang.
Phương pháp điều trị
Nguyên tắc điều trị:
- Điều trị ngay sau khi có kết quả chẩn đoán bệnh
- Tiến hành cách ly người bệnh: có thể ở khu y tế địa phương, khu cách ly của bệnh viện hoặc khu vực điều trị đặc biệt khác theo chỉ dẫn của bác sĩ chủ trị.
- Kết hợp điều trị nâng đỡ tình trạng bệnh với dùng kháng sinh.
Một số biện pháp điều trị nâng đỡ:
- Hạ sốt bằng cách truyền dịch, bù nước và chất điện giải, dùng thuốc trợ tim, an thần là những biện pháp nâng đỡ được sử dụng trong điều trị bệnh dịch.
- Khi bệnh nhân rơi vào trạng thái choáng, suy hô hấp, suy tuần hoàn: tiến hành các biện pháp hồi sức tích cực
- Nhắc nhở và cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng để sức khỏe người bệnh sớm được phục hồi.
Biện pháp phòng ngừa bệnh
Để phòng chống bệnh dịch hạch thì mọi người nên thực hiện một số điều như sau:
- Tiêu diệt vật chủ gây bệnh: vật chủ là trung tâm lây bệnh nên cần tiêu diệt tận gốc nơi sinh sống của chúng. Dọn dẹp đồ dùng, phế thải không cần thiết xung quanh nhà để chuột và các loài côn trùng không có nơi sinh sống và phát triển. Dùng thuốc diệt côn trùng để tiêu diệt tận gốc các loài trung gian gây bệnh.
- Không dùng thực phẩm không đảm bảo: các thực phẩm được tưới trực tiếp bằng phân của động vật hoặc thực phẩm có vết gặm nhấm, vết cắn của chuột, gián, thỏ, sóc,... tuyệt đối không sử dụng. Rửa sạch thực phẩm, ăn chín, uống sôi để vi khuẩn dịch không lây truyền qua đường ăn uống.
- Vệ sinh thú nuôi: việc này sẽ giúp ngăn các loài rận, chấy sinh nở và phát triển. Khi vệ sinh nên mang găng tay để tránh sinh vật trung gian mang mầm bệnh cắn.
- Vệ sinh khu vực sống: giữ môi trường sạch sẽ, thường xuyên vệ sinh kho chứa, ao tù, chuồng chăn nuôi gia súc vì đây là nơi các loài mang mầm bệnh sinh sống và phát triển. Mang găng tay khi vệ sinh để tránh tiếp xúc với vật chủ.
- Đi khám ngay khi có dấu hiệu bệnh: nếu có các triệu chứng của bệnh dịch cần đến ngay cơ sở y tế để làm xét nghiệm chẩn đoán bệnh. Tuân thủ nghiêm ngặt hướng dẫn của bác sĩ để đảm bảo an toàn cho mọi người và nhanh khỏi bệnh.
- Nếu tiếp xúc với người bệnh: điều trị dự phòng bằng Streptomycin 1g/ngày trong 5 ngày hoặc tetracyclin 1g/ngày trong 5 ngày.
Trên đây là toàn bộ thông tin giải đáp về bệnh dịch hạch mà Bệnh viện Đa khoa Phương Đông muốn gửi tới bạn đọc. Hãy liên hệ Hotline 1900 1806 khi cần tư vấn về các gói khám bệnh tại Phương Đông.