Viêm niêm mạc má là tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở lớp mô lót bên trong má, thường gây đau rát, sưng tấy, thậm chí loét và chảy máu. Mặc dù ban đầu có thể chỉ là những biểu hiện nhẹ, nhưng nếu chủ quan và không điều trị đúng cách, viêm niêm mạc má có thể tiến triển thành nhiễm trùng lan rộng, ảnh hưởng đến ăn uống, giao tiếp và sức khỏe tổng thể.
Viêm niêm mạc má là tình trạng như thế nào?
Viêm niêm mạc má là một dạng tổn thương viêm khu trú tại vùng niêm mạc lót mặt trong má, thuộc niêm mạc miệng – một phần của hệ thống niêm mạc đường tiêu hóa trên. Về mặt giải phẫu, niêm mạc má là lớp mô mềm bao phủ mặt trong của hai bên má, có cấu trúc biểu mô lát tầng không sừng hóa, giàu mạch máu và tuyến nước bọt phụ, giúp duy trì độ ẩm, hỗ trợ cơ chế nhai, nuốt và giao tiếp. Khi niêm mạc vùng này bị viêm, tức là xảy ra phản ứng sinh lý, miễn dịch tại chỗ do các yếu tố kích thích hoặc tổn thương, sẽ dẫn đến sự thay đổi cấu trúc mô học, thường biểu hiện bằng sự giãn mao mạch, thâm nhiễm tế bào viêm và biến đổi tế bào biểu mô.
Vì vùng má trong thường xuyên tiếp xúc với các yếu tố cơ học (như thức ăn, răng, khí cụ chỉnh nha...) và hoá học (như nước bọt, thuốc, thực phẩm...), nên niêm mạc ở đây rất nhạy cảm với tổn thương và có tốc độ tái tạo cao. Đây cũng là lý do tại sao viêm niêm mạc má được xem là chỉ dấu quan trọng trong đánh giá sức khỏe răng miệng toàn thân, đặc biệt ở các nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao như người đang điều trị ung thư, bệnh tự miễn, suy giảm miễn dịch hoặc mắc các rối loạn chuyển hóa.
Nhận biết biểu hiện của bệnh viêm niêm mạc má
Viêm niêm mạc má là tình trạng tổn thương lớp niêm mạc trong khoang miệng, đặc biệt ở vùng má trong, gây đau rát, viêm loét và khó chịu khi ăn uống hoặc giao tiếp. Các biểu hiện của bệnh khá đa dạng, tùy thuộc vào nguyên nhân khởi phát và mức độ tổn thương. Tuy nhiên, điểm chung thường gặp là sự xuất hiện của các vết loét, mảng đỏ hoặc đốm trắng hình tròn hoặc hình oval tại vùng niêm mạc má, đi kèm cảm giác bỏng rát, khó chịu, thậm chí là sưng đau hoặc chảy máu nhẹ.
Dưới đây là một số dạng loét niêm mạc má thường gặp:
- Loét dạng aphthe nhỏ: Đây là dạng phổ biến nhất, đặc trưng bởi các vết loét nông, có đường kính dưới 1cm. Chúng thường xuất hiện đơn lẻ hoặc theo nhóm rời rạc, với viền đỏ và trung tâm màu trắng ngà. Loại loét này thường tự lành sau 7–14 ngày mà không để lại sẹo.
- Loét dạng aphthe lớn (bệnh Sutton): Tổn thương có kích thước lớn hơn 1cm, ăn sâu vào lớp niêm mạc và lâu lành hơn so với aphthe nhỏ. Các vết loét thường gây đau dữ dội, có nguy cơ hoại tử mô tại chỗ, dẫn đến sẹo sau khi hồi phục. Thời gian lành có thể kéo dài vài tuần.
- Loét dạng Herpes (Herpetiform ulcers): Xuất hiện dưới dạng nhiều vết loét nhỏ (có thể lên tới 10–100 vết), thường tụ thành từng cụm hoặc liên kết thành mảng lớn. Loét dạng này khởi phát nhanh, gây đau nhức rõ rệt và có thể kéo dài từ 7 đến 30 ngày. Tuy ít gặp hơn, nhưng chúng thường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt hàng ngày.
Viêm niêm mạc má xảy ra ở lớp niêm mạc bên trong má gây ra cảm giác khó chịu và đau đớn cho người bệnh
Các vết loét đều có điểm chung là đỏ ở viền vết thương, trung tâm có mảng màu vàng, trắng khiến cho người bệnh thấy đau đớn trong 2–3 ngày. Tình trạng này sẽ giảm dần ở vài ngày sau.
Ngoài ra, có những dấu hiệu và triệu chứng sau thường được xác nhận khi sắp hoặc đang bị viêm niêm mạc: Vùng má sưng, nó, đỏ, đau. Nếu có vết loét thì thường gây cảm giác đau rát, khó chịu khi ăn, nói chuyện. Bên cạnh đó, khi các vết loét trở nặng, người bệnh sẽ có hiện tượng sốt cao, đôi khi là bị mọc hạch ở góc hàm.
Các tác nhân dẫn đến viêm niêm mạc má
Viêm loét niêm mạc má có thể do nhiều tác nhân khác nhau, bao gồm: Nhiễm virus, nhiễm khuẩn, tác động của hoá chất, do các bệnh lý, chấn thương.
Nhiễm virus – Tác nhân chủ yếu gây viêm niêm mạc má
- Virus Herpes: Có thể lây qua đường tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi tấn công vào khoang miệng, virus sẽ phát triển gây ra các mụn nước và lan rộng tạo thành các vết loét. Viêm loét do virus herpes xuất hiện chủ yếu ở mép niêm mạc miệng và má. Virus herpes còn gây ra các triệu chứng như viêm họng, sốt, nổi hạch.
- Varicella zoster: Đây là virus chính gây bệnh thuỷ đậu, sau khi bệnh khỏi Varicella zoster trú ẩn trong các mô dây thần kinh và làm nổi mụn nước ở điều kiện thích hợp. Mụn nước có thể nổi ở ngoài da hoặc niêm mạc má, khi vỡ tạo thành các vết loét.
- Coxsackie virus: Loại virus này là chính là tác nhân gây nên bệnh tay chân miệng ở trẻ nhỏ. Virus làm xuất hiện các mụn nước ở tay, chân và niêm mạc má. Các mụn nước rất dễ vỡ tạo thành vết loét trong niêm mạc.
- Rubella: Tác nhân gây bệnh sởi ở trẻ em. Trước khi phát sinh thành các triệu chứng toàn thân, virus sẽ làm xuất hiện các nốt hồng ban nhỏ với trung tâm bị hoại tử và có màu trắng trong niêm mạc má.
Nhiễm khuẩn
Tại khoang miệng, có rất nhiều loại vi khuẩn trú ngụ. Khi đề kháng suy giảm, sẽ có nhiều loại vi khuẩn phát triển gây viêm loét lưỡi, má trong và lợi. Tình trạng này có thể gặp nhiều ở người bị mắc hội chứng suy giảm miễn dịch, thiếu dinh dưỡng, suy nhược cơ thể, vệ sinh răng miệng kém hoặc thói quen hút thuốc lá kéo dài.
Tác động của các hoá chất
Trong một số trường hợp, viêm niêm mạc má có thể xảy ra do tiếp xúc với các hoá chất như axit có trong nước súc miệng, kem đánh răng. Nếu do nguyên nhân này, vùng viêm loét sẽ có các biểu hiện như đau rát hay nổi mụn nước.
Do các bệnh lý
Các yếu tố về các bệnh lý răng miệng cũng có thể góp phần làm tăng nguy cơ viêm mạc má
Các bệnh lý như sâu răng, viêm nướu, viêm tủy, viêm nha chu,...cũng có thể là các tác nhân gây viêm loét niêm mạc má. Ngoài ra còn do một số bệnh tự miễn làm hệ miễn dịch suy yếu, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công vào khoang miệng gây viêm.
Do bị chấn thương
- Ăn thức ăn có nhiệt độ quá nóng khiến cho vòm miệng bị tổn thương;
- Chịu tác động từ bên ngoài như chấn thương, va đập, té ngã,...;
- Do quá trình thực hiện thủ thuật nha khoa như hàn trám răng, nhổ răng, răng gãy, răng giả tháo lắp bị hở, mẻ răng,...bị lỗi;
- Va chạm với các đồ vật sắc nhọn như đũa, bút, nĩa,...
Viêm niêm mạc má có nguy hiểm không?
Mặc dù không phải là bệnh lý nghiêm trọng có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nhưng các triệu chứng của bệnh cũng có thể ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày.
Tình trạng sưng đỏ, đau đớn gây ra các khó khăn cho người bệnh khi ăn, nhai, gây cảm giác chán ăn, dẫn đến suy dinh dưỡng. Bên cạnh đó, còn tăng nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn, nấm, virus, đặc biệt là nhiễm trùng máu. Dù không có tác động tiêu cực đến tính mạng nhưng bệnh nhân cũng cần chủ động đi kiểm tra và điều trị sớm để đảm bảo sức khoẻ tổng thể.
Để được tư vấn chính xác về trường hợp cụ thể của bạn, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa. Nếu quý khách hàng có các thắc mắc nào khác cần giải đáp thì đừng ngần ngại để lại thông tin tại phần Đặt lịch khám hoặc bấm máy gọi tới Hotline 1900 1806 của BVĐK Phương Đông để được hỗ trợ.
Cách cải thiện tình trạng viêm niêm mạc má
Viêm niêm mạc má có thể điều trị bằng cách sử dụng thuốc hoặc chăm sóc tại nhà. Đa số các trường hợp bị bệnh không cần điều trị đặc biệt mà sẽ tự khỏi sau 7–14 ngày.
Sử dụng thuốc
Với những trường hợp có các vết loét xuất hiện số lượng nhiều, phát triển một cách bất thường kéo dài trên 3 tuần thì người bệnh nên tới bác sĩ để được thăm khám và điều trị sớm.
Một số loại thuốc có thể được bác sĩ chỉ định sử dụng trong quá trình điều trị như: Thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau, sát khuẩn khoang miệng bằng cách dung dịch như zilactin, orabase,...hoặc giảm đau tại chỗ với thuốc tê lidocain. Tình trạng nhiễm khuẩn nặng hoặc do virus, các thuốc kháng virus hay kháng viêm, kháng sinh sẽ được chỉ định bổ sung.
Chăm sóc răng miệng đúng cách
Duy trì vệ sinh miệng sạch sẽ, hữu ích trong việc giảm viêm và ngăn ngừa nhiễm trùng
Để giảm tổn thương cũng như ngăn ngừa sự phát triển của viêm niêm mạc má, người bệnh có thể tự chăm sóc tại nhà bằng cách:
- Đánh răng 2 lần/ngày, sử dụng chỉ nha khoa và nước súc miệng phù hợp để loại bỏ những mảng bám cũng như các tác nhân gây viêm niêm mạc má hàng đầu.
- Chải răng nhẹ nhàng, chọn nước súc miệng và kem đánh răng lành tính để giảm kích ứng lên vết loét niêm mạc.
Xem thêm:
Xây dựng chế độ ăn uống phù hợp
- Không ăn thức ăn cay nóng, thuốc dị ứng và gây viêm niêm mạc má;
- Ăn uống đủ chất, bổ sung các thực phẩm chứa các vitamin C, PP, B6, B12,...;
- Hạn chế các loại thực ăn có tính axit, cay nóng như gừng, tỏi, ớt, tiêu, giấm, nước, mù tạt, mắm,...các loại trái cây như chanh, cam, quýt, dứa,...;
- Ngưng uống bia rượu, bỏ hút thuốc lá;
- Uống đủ nước, tối thiểu là 2 lít nước/ngày để duy trì độ ẩm, kích thích khoang miệng tiết nước bọt, thúc đẩy cơ chế tự làm lành vết loét niêm mạc má;
- Tập luyện thể thao để tăng cường sức khỏe, tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể;
- Đặc biệt, người bệnh cần đi khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần để kịp thời phát hiện và điều trị các dấu hiệu bất thường.
Kết luận
Viêm niêm mạc má không đơn thuần chỉ là một vết viêm nhỏ trong khoang miệng. Nếu kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, bệnh có thể là dấu hiệu của những rối loạn sức khỏe nghiêm trọng hơn. Việc chủ động đi khám khi có các triệu chứng như sưng đau kéo dài, loét không lành, hoặc khó ăn uống sẽ giúp bạn phát hiện sớm nguyên nhân và điều trị đúng cách. Chăm sóc sức khỏe răng miệng đúng lúc cũng chính là cách bảo vệ sức khỏe toàn diện của bạn.